Chửa trứng là gì? Các công bố khoa học về Chửa trứng
Chửa trứng là quá trình đẻ trứng của các loài vật có xương sống như chim, bò sát và động vật thú. Quá trình này diễn ra khi trứng đã được thụ tinh bởi tinh trùn...
Chửa trứng là quá trình đẻ trứng của các loài vật có xương sống như chim, bò sát và động vật thú. Quá trình này diễn ra khi trứng đã được thụ tinh bởi tinh trùng và phôi thai phát triển trong lòng trứng. Khi quá trình chửa trứng hoàn thành, con vật sẽ từ trứng nở ra và tiếp tục phát triển thành con cái trưởng thành.
Quá trình chửa trứng (hay còn gọi là quá trình ấp trứng) là cách mà một số loài vật thú sinh con bằng cách đẻ trứng và cho môi trường bên ngoài nuôi dưỡng phôi thai trước khi nở. Đối với các loài động vật này, không có sự phát triển dạ dày và cơ quan sinh sản bên trong mẹ để chăm sóc và nuôi dưỡng phôi thai. Thay vào đó, con vật đẻ trứng để cho trứng phát triển và hình thành bên ngoài cơ thể.
Quá trình chửa trứng bắt đầu khi cái đẻ trứng. Thường thì, trứng được đẻ vào một môi trường ngoại vi như vào một tổ hay một khu vực chôn vùi trong lòng đất, hoặc trường hợp của chim là vào tổ chim. Môi trường này cung cấp sự bảo vệ và môi trường lý tưởng để phôi thai phát triển.
Trong thời gian chửa trứng, trứng sẽ tiếp tục phát triển và hình thành các cơ quan chính, bao gồm bào tử, da, hệ hô hấp và hệ tiêu hóa. Trứng cũng sẽ tiếp nhận dưỡng chất và oxy từ môi trường xung quanh thông qua vỏ trứng được thở thụ động.
Thời gian chửa trứng có thể thay đổi tùy thuộc vào loài vật. Ví dụ, một số loài chim có thời gian chửa trứng từ 10-30 ngày. Trong thời gian này, cái chim sẽ ấp trứng hiến hóa để giữ nhiệt độ ổn định và bảo vệ trứng trước các mối nguy hiểm từ môi trường bên ngoài.
Khi quá trình chửa trứng hoàn thành, con vật non từ trứng sẽ nở ra. Con non sẽ ra khỏi trứng và tiếp tục phát triển trên đất liền hoặc trong môi trường sống của chúng. Tuy nhiên, cũng có những loài vật như cá, ấu trùng muỗi và rùa biển, chửa trứng xảy ra trong môi trường nước.
Quá trình chửa trứng có thể được tách thành các giai đoạn cụ thể:
1. Thụ tinh: Đối với các loài vật có chửa trứng, quá trình thụ tinh diễn ra bên ngoài cơ thể cái. Cái đẻ trứng sau khi tiếp nhận tinh trùng từ con đực và tinh trùng thụ tinh trứng, tạo ra một phôi thai.
2. Bọc vỏ trứng: Trứng được bọc một lớp vỏ bảo vệ bên ngoài để bảo vệ phôi thai. Lớp vỏ trứng có thể là một lớp mỏng và mềm như ở cá hoặc là một lớp cứng và cứng như ở chim và bò sát. Vỏ trứng cung cấp sự bảo vệ, hỗ trợ và kiểm soát độ ẩm cho phôi thai bên trong.
3. Phát triển phôi thai: Trong quá trình chửa trứng, phôi thai bên trong trứng sẽ tiếp tục phát triển và hình thành các cơ quan và hệ thống bên trong cơ thể. Điều này bao gồm sự hình thành của các cơ quan sinh sản, hệ tiêu hóa, hệ hô hấp và hệ thống tuần hoàn.
4. Sự trao đổi chất: Phôi thai lấy chất dinh dưỡng và oxy từ môi trường xung quanh thông qua vỏ trứng. Vượt qua vỏ trứng, chất dinh dưỡng và oxy được truyền sang phôi thai, cung cấp năng lượng và chất cần thiết cho sự phát triển.
5. Điều kiện môi trường: Trong suốt quá trình chửa trứng, môi trường nơi trứng được đặt cần được duy trì ở một mức độ phù hợp với việc phát triển của phôi thai. Điều kiện môi trường, bao gồm nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng, có thể tác động đến tốc độ phát triển và số lượng trứng nở ra.
6. Nở ra con non: Sau khi quá trình phát triển hoàn thành, con non sẽ nở ra từ trứng. Con non thường đã có khả năng tự ăn và di chuyển, nhưng còn phụ thuộc vào bố mẹ hoặc môi trường xung quanh để tiếp tục sự phát triển và nuôi dưỡng.
Quá trình chửa trứng có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển và duy trì của các loài vật có chế độ sinh sản này. Nó cung cấp một cơ chế để đảm bảo phôi thai có được môi trường lý tưởng để phát triển và sinh sống cho đến khi chúng tự có thể tồn tại ngoài môi trường bảo vệ của trứng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chửa trứng":
Một phương pháp kiểm tra đất DTPA đã được phát triển để nhận diện các loại đất gần trung tính và đất vôi có hàm lượng Zn, Fe, Mn, hoặc Cu không đủ cho năng suất cây trồng tối đa. Chất triết suất gồm 0.005
Phương pháp kiểm tra đất đã phân biệt thành công 77 loại đất ở Colorado dựa trên sự phản ứng của cây trồng với phân bón kẽm, sắt và mangan. Mức độ dinh dưỡng quan trọng phải được xác định riêng biệt cho từng loại cây trồng sử dụng quy trình tiêu chuẩn hóa cho việc chuẩn bị đất, nghiền và triết suất. Các mức độ quan trọng cho ngô sử dụng quy trình báo cáo trong nghiên cứu này là: 0.8 ppm cho Zn, 4.5 ppm cho Fe, tạm thời 1.0 ppm cho Mn, và 0.2 ppm cho Cu.
Việc phát triển phương pháp kiểm tra đất một phần dựa trên các cân nhắc lý thuyết. Chất triết suất được đệm tại pH 7.30 và chứa CaCl2 để cân bằng với CaCO3 tại mức CO2 cao hơn khoảng 10 lần so với mức trong không khí. Nhờ đó, chất triết suất tránh việc hòa tan CaCO3 và phát thải các dưỡng chất bị mắc kẹt thường không có sẵn cho cây trồng. DTPA được chọn làm chất tạo phức vì có khả năng hiệu quả chiết xuất cả bốn kim loại vi lượng. Các yếu tố như pH, nồng độ chất tạo phức, thời gian lắc, và nhiệt độ triết suất ảnh hưởng đến lượng vi lượng được chiết xuất và được điều chỉnh để đạt hiệu quả tối đa.
Việc hình thành xương và sụn trong phôi và quá trình sửa chữa và thay thế ở người lớn liên quan đến thế hệ của một số lượng nhỏ tế bào được gọi là tế bào gốc trung mô. Những tế bào này phân chia, và thế hệ con của chúng trở nên gắn kết với một con đường kiểu hình đặc trưng cụ thể, một dòng tế bào với các bước riêng biệt và, cuối cùng, các tế bào giai đoạn cuối tham gia vào việc chế tạo một loại mô đặc trưng, chẳng hạn như sụn hoặc xương. Các kích thích địa phương (các yếu tố ngoại sinh) và tiềm năng gen (các yếu tố nội sinh) tương tác ở mỗi bước của dòng tế bào để kiểm soát tỷ lệ và kiểu hình đặc trưng của các tế bào trong mô đang hình thành. Nghiên cứu về các tế bào gốc trung mô này, dù được phân lập từ phôi hay người lớn, cung cấp cơ sở cho sự xuất hiện của một công nghệ điều trị mới liên quan đến việc sửa chữa tế bào tự thân. Việc phân lập, mở rộng phân bào và giao hàng hướng đến vị trí của các tế bào gốc tự thân có thể điều chỉnh quá trình sửa chữa nhanh chóng và đặc hiệu của các mô xương.
Tác động của việc chuẩn bị mẫu, quy trình tái hydrat hóa và thời gian thu thập đến xác định diện tích lá đặc trưng (SLA, tỷ lệ giữa diện tích lá và khối lượng khô của lá) và hàm lượng chất khô trong lá (LDMC, tỷ lệ giữa khối lượng khô của lá và khối lượng tươi) của lá trưởng thành đã được nghiên cứu trên ba loài hoang dã sinh trưởng tại hiện trường, được chọn do sự tương phản giữa SLA và LDMC của chúng. Quá trình tái hydrat hóa hoàn toàn được thực hiện 6 giờ sau khi mẫu được đặt vào nước, nhưng không có quy trình nào được thử nghiệm – chuẩn bị mẫu trước khi tái hydrat hóa hoặc nhiệt độ áp dụng trong quá trình tái hydrat hóa – có ảnh hưởng đáng kể đến các giá trị cuối cùng của SLA hoặc LDMC. Như mong đợi, lá bão hòa nước có LDMC thấp hơn so với lá không được tái hydrat hóa; điều bất ngờ hơn là SLA của chúng cũng cao hơn. Tác động của tái hydrat hóa đến SLA đặc biệt quan trọng khi SLA của loài cao. Không có ảnh hưởng đáng kể nào của thời gian lấy mẫu đối với bất kỳ đặc tính nào ở bất kỳ loài nào trong khoảng thời gian được xem xét (09·00–16·30 giờ). Các kết quả này cho thấy SLA và LDMC thu được từ lá bão hòa nước (SLASAT và LDMCSAT) có thể được sử dụng cho sự so sánh giữa các loài. Chúng tôi đề xuất một quy trình chuẩn hóa cho việc đo lường các đặc tính này. Điều này sẽ cho phép thu thập dữ liệu một cách đồng nhất hơn, một điều kiện tiên quyết cho việc hình thành các cơ sở dữ liệu lớn về các đặc điểm chức năng.
Chỉ số Lượng mưa Chuẩn hóa (SPI) được phát triển nhằm phát hiện hạn hán và các giai đoạn ẩm ướt theo nhiều thang thời gian khác nhau, một đặc điểm quan trọng mà các chỉ số hạn hán thông thường không thể mang lại. Ngày càng có nhiều người sử dụng SPI để giám sát hạn hán. Mặc dù việc tính toán SPI đơn giản hơn so với chỉ số hạn hán khác, như Chỉ số Hạn hán Palmer, nhưng vẫn còn khá phức tạp. Tại Trung Quốc, một chỉ số gọi là Chỉ số CZI của Trung Quốc đã được Trung tâm Khí hậu Quốc gia Trung Quốc sử dụng từ năm 1995 để giám sát điều kiện ẩm trên khắp cả nước. Việc tính toán chỉ số này dễ hơn so với SPI. Một chỉ số thứ ba, Điểm Z Thống kê, cũng có thể được sử dụng để giám sát hạn hán. Bài báo này đánh giá SPI, CZI và Điểm Z trên các thang thời gian là 1, 3, 6, 9 và 12 tháng, sử dụng tổng lượng mưa hàng tháng cho bốn địa điểm ở Trung Quốc từ tháng 1 năm 1951 đến tháng 12 năm 1998, đại diện cho các khí hậu ẩm và khô, cũng như các trường hợp hạn hán và lũ lụt. Các ưu điểm và khuyết điểm trong việc áp dụng mỗi chỉ số được so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng CZI và Điểm Z có thể cung cấp kết quả tương tự như SPI cho mọi thang thời gian, và rằng việc tính toán CZI và Điểm Z tương đối dễ so với SPI, có thể cung cấp các công cụ tốt hơn để giám sát điều kiện ẩm ướt. Bản quyền © 2001 Royal Meteorological Society.
Các sợi vỏ - lõi hai thành phần đã được chuẩn bị bằng phương pháp kéo sợi nóng chảy thông thường với chip polypropylen và nanoparticle bạc. Các sợi kéo sợi nóng chảy đã được đặc trưng bằng DSC, WAXS và SEM. Tác dụng kháng khuẩn được đánh giá bằng thử nghiệm AATCC 100, một phương pháp định lượng. Kết quả từ đồ thị DSC và dạng tần số tia X cho thấy độ tinh thể của polypropylen, bao gồm cả nanoparticle bạc, đã giảm nhẹ so với sợi polypropylen nguyên chất. Ảnh vi hình SEM cho thấy đường kính trung bình của các nanoparticle bạc khoảng 30 nm và một số hạt đã bị tập hợp. Các sợi có chứa bạc ở phần lõi không cho thấy hiệu ứng kháng khuẩn. Tuy nhiên, các sợi với bạc được thêm vào phần vỏ lại thể hiện hiệu ứng kháng khuẩn xuất sắc. Bản quyền © 2003 Hiệp hội Công nghiệp Hóa chất
Nghiên cứu các đặc điểm của lỗ rỗng rất quan trọng trong việc đánh giá bể chứa, đặc biệt là trong các sa thạch bị chôn vùi sâu. Nó kiểm soát cơ chế lưu trữ và các thuộc tính của chất lỏng trong bể chứa của các tầng có khả năng thẩm thấu. Thành viên đầu tiên của tầng đá Shahejie từ kỷ Eocen (Es1) được phân loại là đá feldspathic litharenite và lithic arkose. Nghiên cứu hiện tại điều tra các đặc điểm của lỗ rỗng và các đặc tính bể chứa của bể chứa sa thạch bị chôn vùi sâu của thành viên Es1 thuộc tầng đá Shahejie. Các kỹ thuật bao gồm địa chất học mỏng, áp suất mao dẫn tiêm thủy ngân (MICP), kính hiển vi điện tử quét và ảnh kính hiển vi huỳnh quang quét laser đã được sử dụng để phân định các lỗ rỗng bao gồm lỗ rỗng liên kết chính và lỗ rỗng liên kết phụ, lỗ rỗng bên trong, lỗ rỗng hòa tan và lỗ rỗng nứt. Thử nghiệm tiêm thủy ngân và phân tích lõi thông thường đã dẫn đến việc phân định các đặc điểm mạng lỗ rỗng của bể chứa đã nghiên cứu. Kích thước lỗ rỗng và phân bố kích thước cổ họng lỗ rỗng được thu thập từ thử nghiệm tiêm thủy ngân. Giá trị độ rỗng dao động từ 0.5% đến 30%, và độ thẩm thấu dao động từ 0.006 – 7000 mD. Bán kính lỗ rỗng của sa thạch hạt thô và sa thạch hạt mịn dao động từ 0.2 đến > 4 µm và 1 nm đến 1.60 µm, tương ứng, qua phân tích MICP. Thành phần khoáng vật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các lỗ rỗng trước áp suất từ sự hỏng hóc. Sa thạch nứt và sa thạch hạt thô có chứa các lỗ rỗng lớn và kết nối với nhau, qua đó tăng cường độ rỗng và khả năng thẩm thấu của bể chứa, trong khi sa thạch hạt mịn và đá phèn có chứa nhiều lỗ rỗng nhưng không kết nối tốt, nên chúng có độ rỗng cao với độ thẩm thấu thấp.
Các phương pháp dựa trên chỉ số tập trung là một trong những công cụ phổ biến nhất để ước lượng bất bình đẳng về sức khỏe liên quan đến trạng thái kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, một số biến thể của chỉ số tập trung đã được phát triển nhằm khắc phục các thiếu sót của chỉ số tập trung tiêu chuẩn và đang ngày càng được sử dụng. Các biến thể này, bao gồm chỉ số Wagstaff và chỉ số Erreygers, có những khác biệt kỹ thuật và chuẩn mực quan trọng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cung cấp một đánh giá phi kỹ thuật và phê phán về những chỉ số này. Chúng tôi (i) thảo luận về những khó khăn phát sinh khi các công cụ đo lường dự kiến cho thu nhập được áp dụng trong bối cảnh sức khỏe, (ii) mô tả và minh họa mối quan hệ giữa các thuộc tính kỹ thuật và chuẩn mực của những chỉ số này, (iii) thảo luận về những thách thức khi xác định liệu các ước lượng chỉ số lớn hay có ý nghĩa chính sách, và (iv) đánh giá mức độ tương thích của thực hành nghiên cứu với các thuộc tính của các chỉ số được sử dụng. Những vấn đề được thảo luận trong các phần (i) và (ii) bao gồm những quan niệm khác nhau về bất bình đẳng mà cơ sở cho các chỉ số, các loại thay đổi trong một phân phối mà không làm thay đổi bất bình đẳng và tầm quan trọng của thang đo và phạm vi của biến kết quả. Những khái niệm này được minh họa bằng các ví dụ giả thuyết. Đối với các phần (iii) và (iv), chúng tôi đã xem xét 44 nghiên cứu thực nghiệm được công bố từ năm 2015 đến 2017 và nhận thấy rằng các nhà nghiên cứu thường không cung cấp những giải thích có ý nghĩa về các ước lượng chỉ số.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10